Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam. Trong đó 8 câu đầu Việt Bắc thường được lựa chọn để phân tích trong các đề Ngữ Văn 12. Cùng tham khảo 15 dàn ý và mẫu phân tích 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất dưới đây nhé.
- Dàn ý phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
- Sơ đồ tư duy phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
- Dàn ý phân tích 8 câu đầu Việt Bắc 1
- Dàn ý phân tích 8 câu đầu Việt Bắc 2
- Dàn ý phân tích 8 câu đầu Việt Bắc 3
- Dàn ý phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu Việt Bắc
- Bài văn mẫu phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
- Phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc 1
- Phân tích câu đầu bài Việt Bắc 2
- Phân Tích 8 câu đầu bài Việt Bắc 3
- Phân tích khung cảnh chia li trong 8 câu đầu Việt Bắc
- Download 20 bài văn mẫu phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
Dàn ý phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
Bài thơ Việt Bắc là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà thơ Tố Hữu nói riêng và phong cách thơ trữ tình chính trị nói chung. Cùng Vui học phân tích 8 câu thơ mở đầu cho bài thơ cũng như mở đầu cho nỗi nhớ thương, tình cảm giữa con người Việt Bắc với cán bộ dưới xuôi.
Việt Bắc 8 câu đầu là những tâm tư tình cảm của nhà thơ Tố Hữu với vùng đất đã gắn bó suốt 15 năm kháng chiến. Mời bạn tham khảo sơ đồ tư duy cảm nhận 8 câu thơ đầu Việt Bắc trong chương trình Văn 12:
Sơ đồ tư duy phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
Dàn ý phân tích 8 câu đầu Việt Bắc 1
I. Mở bài
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ông đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Việt Bắc có nhiều đoạn thơ hay mà tiêu biểu là đoạn thơ sau:
“Mình về mình có nhớ ta
…
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
II. Thân bài
1. Khái quát:
– Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940, gồm sáu tỉnh viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình (1940 – 1954).
– Sau hiệp định Giơnevơ, tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Buổi chia tay lịch sử ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Trải dài khắp bài thơ là niềm thương nỗi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến gian khổ nhưng nghĩa tình.
2. Nội dung cảm nhận
a. Bốn câu thơ mở đầu là lời của Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi kỷ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình.
– Mở đầu là câu hỏi tu từ. Trong câu hỏi này, “Mình” là chỉ người ra đi, “Ta” là chỉ người ở lại.
+ “Mười lăm năm ấy” là trạng ngữ chỉ thời gian, đó là thời gian chỉ độ dài gắn bó nhớ thương vô vàn giữa người đi kẻ ở. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt.
– Hai câu sau là lời nhắc nhở chân tình, lời dặn dò kín đáo mà rất đỗi thiết tha. Câu thơ có hai hình ảnh “núi” và “nguồn” là sự vận dụng rất linh hoạt và tài tình của Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Đó là lời nhắc nhở, dặn dò kín đáo rất đỗi chân thành: Việt Bắc là cội nguồn Cách mạng, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Xin người về đừng quên cội quên.
b. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương, bịn rịn:
– “Bâng khuâng” có nghĩa là nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn (buồn vì phải xa VB, vui vì được trở lại quê hương của mình) mà buồn nhiều hơn vui. “Bồn chồn” là từ láy diễn tả tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng ngập ngừng, bịn rịn không muốn chia xa.
– Buổi chia tay ấy có hình ảnh “Áo chàm đưa buổi phân ly”. “Áo chàm” là màu áo nghèo khổ, bình dị của người dân Việt Bắc, là hình ảnh hoán dụ để chỉ con người Việt Bắc. Đó là những con người nghèo khổ “hắt hiu lau xám” nhưng luôn “đậm đà lòng son” thủy chung, mặn nồng.
– Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” đầy tính chất biểu cảm. “Biết nói gì hôm nay…” không phải là không có gì để nói. Không nói được vì xúc động nghẹn ngào không thốt được nên lời. Những lời không nói ấy có lẽ đã nằm hết trong ba chữ “Cầm tay nhau”. “Cầm tay” là biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết. “Cầm tay” là đã đủ nói lên bao cảm xúc trong lòng rồi. Mặt khác, ba dấu chấm lửng đặt ở cuối câu như càng tăng thêm cái tình cảm mặn nồng ấy. Nó giống như nốt lặng trong một khuông nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng.
3. Nghệ thuật:
Thể thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (Hoán dụ, câu hỏi tu từ).
Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình)
III. Kết bài
– Đánh giá chung.
Dàn ý phân tích 8 câu đầu Việt Bắc 2
Lập dàn ý phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
a. Mở bài Việt Bắc 8 câu đầu
– Tố Hữu (1920-2002): là nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ trữ tình chính trị
– Hoàn cảnh sáng tác bài thơ
b. Thân bài:
– Bốn câu đầu:
+Bức tranh toàn cảnh của buổi chia tay giữa người dân Việt Bắc với cán bộ
+Cách xưng hô thân thiết “mình” – “ta” xuất hiện nhiều trong ca dao Việt Nam
+Khoảng thời gian gắn bó “mười lăm năm”
+Những kỷ niệm trong “mười lăm năm” cùng buồn cùng vui
+Tình cảm sâu đậm ẩn sau bốn chữ “thiết tha mặn nồng”
+Hai cầu đầu nhắc tới tình cảm giữa bộ đội và Việt Bắc
+Hai câu sau chính nhân dân núi rừng Việt Bắc nhắc cán bộ đừng quên họ
+Câu thơ thứ ba là câu hỏi tu từ, không hỏi để lấy câu trả lời mà hỏi để nhắc “đừng quên”
+Liên hệ với thế hệ sau này “uống nước nhớ nguồn”
– Bốn câu sau:
+Bốn câu sau là tình cảm nhớ nhung của “người đi”
+“Tiếng ai” như nhắc đến tiếng lòng không nói thành lời của chiến sĩ khi rời chiến khu Việt Bắc
+Hai từ láy “Bâng khuâng” và “bồn chồn” nhấn mạnh nỗi nhớ không nguôi
+Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc giản dị thân thương
+Những tình cảm không thể nói thành lời đã được biểu đạt chân thật qua động từ “cầm tay nhau”
+Người đi như hồi tưởng nhớ lại những ký ức của Việt Bắc: người dân Việt Bắc, núi rừng Việt Bắc,…
c. Kết bài cảm nhận 8 câu thơ đầu Việt Bắc
– Các biện pháp nghệ thuật có trong bài: liệt kê, ẩn dụ, nhân hóa, điệp từ, cách ngắn nhịp,…
– Lần nữa nhắc lại tình cảm của người dân Việt Bắc với cán bộ trong buổi chia tay
Dàn ý phân tích 8 câu đầu Việt Bắc 3
a) Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
+ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
– Khái quát nội dung 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc : Đoạn thơ đã tái hiện niềm thương nỗi nhớ, cũng chính là niềm trăn trở chung của đồng bào ta trong lần chia tay lịch sử.
b) Thân bài: Phân tích nội dung 8 câu thơ đầu
* 4 câu đầu:
Nỗi nhớ của người ở lại dành cho người ra đi
– Khơi gợi kỷ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình.
Điệp từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng
Cách xưng hô “mình – ta” : thân mật gần gũi như trong ca dao
Điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” : lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.
=> Hai câu hỏi đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi nhớ về không gian: sông, núi, nguồn.
=> Đó là khoảng thời gian gắn bó biết bao kỉ niệm của người dân Việt Bắc với người lính.
* 4 câu sau: Tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương, bịn rịn
Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “bồn chồn” thể hiện sự không yên tâm trong dạ, không nỡ rời bước
Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân thương giản dị
Cử chỉ “cầm tay nhau” thay lời nói chứa đầy cảm xúc.
=> Không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi, bịn rịn không muốn chia xa.
– Lời người ở lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới hình thức những câu hỏi: nhớ về Việt Bắc cội nguồn quê hương cách mạng, nhớ thiên nhiên Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình…
Liệt kê hàng loạt các kỉ niệm
Ẩn dụ, nhân hóa: rừng núi nhớ ai
Điệp từ “mình”
Cách ngắt nhịp 4/4 đều tha thiết nhắn nhủ người về thật truyền cảm.
=> Thiên nhiên, mảnh đất và con người Việt Bắc với biết bao tình nghĩa, ân tình, thủy chung.
* Đặc sắc nghệ thuật
– Thể thơ lục bát truyền thống
– Sử dụng hình ảnh đối đáp quen thuộc trong ca dao
– Sử dụng hình ảnh hoán dụ, từ láy, câu hỏi tu từ, lặp cấu trúc.
– Giọng thơ trữ tình, đằm thắm
– Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhịp điệu.
c) Kết bài
– Khái quát nội dung 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc.
– Cảm nhận của em về đoạn thơ.
Dàn ý phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu Việt Bắc
1.1. Dàn ý tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc ngắn nhất
1.1.1. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
– Khái quát tính dân tộc trong 8 câu đầu.
1.1.2. Thân bài:
1.1.2.1. Khái quát chung:
* Hoàn cảnh sáng tác bài thơ:
– Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn độc lập. Vào tháng 10 – 1954, những người chiến sĩ cách mạng từ căn cứ miền núi trở về xuôi. Cuộc chia tay đầy lưu luyến đã khiến Tố Hữu xúc động viết lên bài thơ.
* Giải thích:
– Tính dân tộc là những nét bản sắc, nét riêng đặc thù của một dân tộc.
=> Tính dân tộc được thể hiện ở hai phương diện: Nội dung và nghệ thuật.
=> Bài thơ “Việt Bắc” đậm đà tính dân tộc. Đặc biệt điều đó được thể hiện trong tám câu thơ đầu.
1.1.2.2. Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc.
a) Tính dân tộc thể hiện ở phương diện nội dung
* Khổ 1: Lời nhắn nhủ thiết tha của người ở lại:
– Cách xưng hô: “Mình – ta” gợi sự gắn bó, thân thiết tuy hai mà một giữa người đi – kẻ ở.
– Điệp từ “nhớ”: Thể hiện nỗi nhớ sâu nặng.
– “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”:
+ “Mười lăm năm”: Mốc thời gian tính từ những ngày đầu người lính tham gia kháng chiến cho đến khi rời đi.
=> Không chỉ là mốc thời gian lịch sử mà đó còn là mốc thời gian gắn với những kỉ niệm thiết tha, nghĩa tình.
+ “Thiết tha mặn nồng”: Nhấn mạnh tình cảm gắn bó, yêu thương.
– “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”: Một lời dặn dò đầy kín đáo, nhắc nhở người ra đi đừng bao giờ quên cội nguồn cách mạng.
=> Bốn câu mở đầu là lời của người ở lại hỏi người ra đi nhằm khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn gắn bó đã qua, về không gian cội nguồn, nghĩa tình.
* Khổ 2: Nghĩa tình của người ra đi:
– “Tiếng ai tha thiết bên cồn”: Lời đáp ân tình của người ra đi dành cho người ở lại.
– “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”:
+ “Bâng khuâng”, “bồn chồn”: cảm xúc lưu luyến, bịn rịn không nỡ chia xa.
+ Lòng người ra đi như thấm đượm nỗi nhớ thương.
– “Áo chàm”: Hình ảnh hoán dụ để chỉ người Việt Bắc.
– “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”:
+ Tình cảm quá đậm sâu khiến người ra đi không biết nói gì, lúc này mọi ngôn từ đều trở nên thừa thãi.
+ Người dân Việt Bắc và người lính chưa chia xa nhưng đã thấy thương, thấy nhớ.
=> Đoạn thơ đề cập đến một vấn đề chung được cả cộng đồng quan tâm: cuộc chia tay làm chấn động lòng người giữa đồng bào Việt Bắc và người kháng chiến về xuôi. Qua cuộc chia tay đó đã thấy được tâm trạng, cảm xúc của người đi – kẻ ở.
b) Tính dân tộc biểu hiện ở phương diện nghệ thuật:
– Kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên.
– Cách xưng hô mình – ta.
– Thể thơ lục bát dân gian, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào tha thiết.
– Sử dụng lối nói, lối ví von quen thuộc.
1.1.3. Kết bài:
– Khẳng định lại giá trị của tính dân tộc qua bài thơ Việt Bắc.
Bài văn mẫu phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
Phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc 1
Tố Hữu, ông là một trong những nhà thơ trữ tình chính trị. Vừa tham gia chiến tranh, vừa viết thơ nên thơ ông dành rất nhiều tình cảm cho con người và lý tưởng sống của Cách mạng Việt Nam. Trong đó, tác phẩm “Việt Bắc” là một trong những tác phẩm để đời của ông, bài thơ thấm đậm hồn thơ của Tố Hữu và là bản hùng ca về kháng chiến, chiến đấu chống thực dân Pháp.
Tác phẩm được viết nhân ngày sự kiện các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rời xa chiến khu Việt Bắc để về Thủ đô Hà Nội, sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết thành công vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ không chỉ ghi lại ánh hào quang trong lịch sử dân tộc mà còn là lời tâm sự đầy thân thương, thể hiện một tình cảm sắc son, thủy chung của người đi và chiến khu Việt Bắc. Cảnh chia ly bịn rịn ấy được nhà thơ khắc họa chân thực, sinh động và đầy xúc động với 8 câu thơ đầu:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
Theo như lịch sử Việt Nam, thì Việt Bắc còn là tên gọi chung của sáu tỉnh phía Bắc thời kháng chiến chống thực dân Pháp, là Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, được viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Đây là khu căn cứ địa kháng chiến, được Đảng Cộng Sản và Chính phủ thành lập từ năm 1940. Ở nơi đây, nhân dân Việt Bắc và cán bộ chiến sĩ cách mạng đã trải qua 15 năm gắn bó nghĩa tình, từ năm 1940 đến năm 1954.
Sau khi quân và dân ta đánh bại giặc ngoại xâm để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vẻ vang, làm trấn động đến cả thế giới, thì đến tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người trong buổi chia ly ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho tác giả Tố Hữu viết nên bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng. Trong suốt tác phẩm là nỗi niềm thương nhớ về những năm tháng chiến đấu gian nan khổ cực nhưng mà lại đầy nghĩa tình của quân và dân.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Mở đầu của bài thơ, tác giả đã sử dụng một câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao: “Mình về mình có nhớ ta”. “Mình về” ở đây tiết lộ cho người đọc thấy rằng hoàn cảnh để đưa đến nỗi niềm của người ở lại. Đó là đang tiễn người đi trở về nhà. Chữ “mình” và “ta” được sắp xếp đứng cách xa nhau và chữ “nhớ” được đứng ở giữa. Điều đó thể hiện cho chúng ta thấy rằng, dù mình và ta có cách xa nhau bao nhiêu,bao lâu thì vẫn luôn luôn nhớ mãi về nhau. Nỗi nhớ ấy dựa trên 15 năm gắn bó thiết tha mặn nồng: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Có thể thấy, câu thơ đang mang dáng vẻ nỗi nhớ trong thơ Kiều: “Mười lăm năm ấy biết bao là tình”. Nhưng nếu như nàng Kiều là nói về tình yêu đôi lứa thì ở đây tác giả nhắc muốn nói đến là tình đồng chí, đồng bào trong một thời kháng chiến, chiến đấu đầy gian lao, khốc liệt. Thời gian 15 năm với biết bao những đau thương mất mát, mà giờ đây chỉ còn là tình cảm thiết tha mặn nồng. 15 năm là quãng thời gian mà người ta có thể ví như là ¼ đời người. Người ở và người đi đã đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau chia sẽ những khó khăn, đã cùng vào sinh ra tử.
Với 8 câu thơ đầu Việt Bắc ta càng thấy trân trọng hơn tình cảm của những con người Việt Nam dành cho nhau,chia sẻ những đắng cay, ngọt bùi, những lúc gian khổ. Dường như càng khốc liệt bao nhiêu thì con người càng yêu thương nhau, đùm bọc che chở cho nhau nhiều hơn. Chính vì vậy, câu sau tác giả lại tiếp tục sử dụng câu hỏi tu từ: “Mình về mình có nhớ không”. Giờ đây, mình và ta đã hòa vào thành một. Nỗi lòng của người ở và của người đi, tất cả đều đều chung quy một nỗi nhớ. Và nỗi nhớ ấy không dừng lại ở nội tâm mà còn lan rộng ra cả thiên nhiên, núi rừng, sông suối “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây như vừa là lời nhắn nhủ của người ở lại nói với người đi rằng, sau này dù có như nào đi đâu về đâu khi nhìn thấy cây thì hãy nhớ đến núi rừng Việt Bắc, khi nhìn thấy sông thì cũng nhớ tới cội nguồn của chiến khu này. Đồng thời là lời hứa của người đi rằng sẽ luôn nhớ về chiến khu Việt Bắc từ núi cho tới nguồn mỗi khi nhìn thấy cây, thấy sông.
Trong câu thơ xuất hiện hai từ chỉ hành động đó là “nhìn” và “nhớ”. Một hành động miêu tả hoạt động thị giác, một động từ miêu tả hoạt động trong tâm trí. Nhìn là đang nói đến hiện tại, tương lai. Nhớ là nói về quá khứ. Điều này nhấn mạnh rằng dù người ở và người đi tương lai có thế nào thì vẫn luôn nhớ về quá khứ bên nhau. Động từ “nhớ” xuất hiện với tần suất dày đặc, như để khẳng định như để khắc sâu hơn vào tâm trí, tâm hồn người và cảnh Việt Bắc về nỗi nhớ. Đồng thời qua đây ta có thể cảm nhận được tấm lòng chân thực, tình cảm chân thành của người dân miền núi dành cho chiến sĩ cách mạng. Dù có nghèo khó, khổ cực ra sao, nguy hiểm, gian lao thế nào, họ vẫn luôn luôn sẵn sàng dành cho các cán bộ miền xuôi một tình cảm da diết và mãi vững bền.
Nếu như bốn câu thơ đầu nhà thơ diễn tả tình cảm của người Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi thì đối với những câu thơ sau nói lên tình cảm đáp lại của các chiến sĩ cách mạng và cán bộ với người chiến khu:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Những người chiến sĩ cách mạng định bước đi, nhưng lại bỗng nghe tiếng “ai tha thiết” khiến cho họ bước đi mà trong lòng bồn chồn. Nhà thơ thật khéo léo khi chỉ qua hai câu thơ nhưng đã vẽ lên được sự bịn rịn lưu luyến không muốn chia cách của cả người ở lẫn người đi. Chỉ có những ai đã gắn bó với nhau trong thời gian rất dài và dành tình cảm cho nhau lắm thì mới khó lòng chia xa đến như vậy. Bởi vì cả hai người ở và người đi đều biết rằng, chiến tranh sẽ vẫn còn tiếp diễn.
Sự gặp lại không biết là đến bao giờ. Bởi vậy, họ càng thấy tiếc nuối xót xa. Giống như chân lý mà Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”. Các chiến sĩ, cán bộ cách mạng đáp lại lời của bà con dân bản đó là bà con và đất trời chiến khu đã trở thành một phần trong tâm hồn của họ. Tác giả đã sử dụng 2 cụm từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn” để càng nhấn mạnh thêm sự day dứt, lưu luyến không muốn rời xa của người đi. Người đi là các cán bộ về xuôi. Họ ra đi nhưng vẫn mang trong mình nỗi lo lắng và nhung nhớ nơi chiến khu. Họ thương người dân ở chiến khu. Họ lo lắng rằng, trong những năm tháng sắp tới, người dân ở nơi đây sẽ như thế nào. Thật sự, chưa nơi đâu mà tình cảm quân dân lại thắm đẵm xúc động đến như thế này.
Hình ảnh buổi chia ly giữa người ở và người đi đầy những giọt nước mắt, nghẹn ngào diễn ra chiến sĩ cách mạng và người Việt Bắc được miêu tả rõ nét nhất vào hai câu thơ cuối:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Nói đến “áo chàm” là người ta nghĩ tới hình ảnh chiếc áo màu nâu, là màu áo của bà con nông dân lam lũ, lao động, cực khổ đã cần mẫn phục vụ cho Cách mạng nước nhà. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” đó chính là nói về người nông dân Việt Bắc hiền lành, cần mẫn. Áo chàm ở đây không chỉ là dành cho riêng ai, mà nói đến tất cả những người dân chiến khu Việt Bắc. Họ và các cán bộ cầm tay nhau mà không biết nói gì. Không phải là họ không có gì để nói với nhau mà trong lòng họ có quá nhiều thứ để nói. Họ muốn nói với nhau, muốn tâm sự với nhau nhiều lắm nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Thế nên, chỉ cầm tay nhau để cảm nhận được hết những nỗi lòng của nhau. Bởi từ bàn tay, trái tim con người sẽ dễ dàng cảm nhận được. Dù tình cảm vô cùng keo sơn gắn bó, nhưng giữa những con người ấy vẫn luôn có lí trí. Họ hiểu được rằng, không còn cách nào khác nữa. Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc xa cách. Nhưng chia li trong nước mắt hạnh phúc vẫn hơn là trong đau khổ. Dù là phải xa nhau nhưng người dân Việt Bắc và các chiến sĩ cách mạng vẫn có một niềm vui to lớn, đó là niềm vui của chiến thắng.
8 câu thơ ở đầu bài Việt Bắc nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng nhưng biện pháp nghệ thuật giúp cho đoạn thơ càng hấp dẫn. Đầu tiên là về thể thơ lục bát. Với thể loại này, khiến cho người đọc vô cùng dễ nhớ dễ thuộc, bởi vì đây là thể thơ mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Bên cạnh đó, lối hát đối đáp mang âm hưởng ca dao, dân ca giúp bài thơ thêm phong phú về giai điệu. Kết hợp với nhiều biện pháp tư như như hoán dụ, câu hỏi tu từ… giúp bức tranh buổi chia ly thêm rõ nét và có nhiều cảm xúc.
Qua 8 câu thơ đầu của tác phẩm Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã giúp cho người đọc vô cùng cảm động trước tình cảm chân thành sâu sắc giữa bà con chiến khu Việt Bắc với các cán bộ, chiến sĩ Cách mạng. Nếu như, 15 năm người ta sống trong sung sướng, sang giàu thì chưa chắc đã gắn bó, nghĩa tình như khi người ta sống trong gian nan, khổ cực hiểm nguy. Bởi vậy, khi phải nói lời chia tay, mối thân tình ấy của người đi và người ở càng thêm day rứt, luyến lưu.
Vì là một người trong cuộc, cùng chứng kiến, nhà thơ Tố Hữu lại mang trong mình một hồn thơ yêu nước nên ông đã vẽ nên bức tranh thật sinh động, tuy mộc mạc, giản dị nhưng thấm đậm tính nhân văn.
Phân tích câu đầu bài Việt Bắc 2
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của thơ ca cách mạng nước nhà. Thơ của ông luôn mang theo hướng sử thi và cảm hứng lãng mạng, đậm chất trữ tình. Trong sự nghiệp của mình Tố Hữu đã có nhiều tác phẩm có giá trị như tập thơ “Từ ấy”, “Máu và hoa”… một trong những số đó bài tiêu biểu nhất là bài thơ “Việt Bắc” trích trong tập thơ “Việt Bắc”. Bài thơ tác giả đã thể hiện một cách thành công miêu tả về nỗi nhớ nhung ra riết, tâm trạng bồi hồi lo lắng, lưu luyến trong buổi chia xa của người dân ở chiến khu Việt Bắc với chiến sĩ và cán bộ cách mạng. Điều đó ta có thể thấy rằng nhà thơ Tố Hữu thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Chiến Khu Việt Bắc là một trong những căn cứ địa cách mạng, là cái nôi chiến đấu, kháng chiến chống giặc. Sau chiến thắng tưng bưng vẻ vang, chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954, hiệp định Giơ ne vơ được kí kết. Tháng 10 năm 1954, Đảng và chính phủ nhà nước ta phải rời chiến khu Việt bắc trở về Thủ Đô Hà Nội. Cùng với sự kiện lịch sử vẻ vang ấy Tố Hữu đã viết nên bài thơ “Việt Bắc”.
Câu thơ mở đầu của bài thơ đó là một câu hỏi tu từ chứa đựng nhiều cảm xúc:
“Mình về mình có nhớ ta”
Từ “Mình” đó là để chỉ những người ra đi – người chiến sĩ cách mạng,từ “ta” chính là để chỉ người dân ở chiến khu Việt Bắc. Câu hỏi đó chính là lời của người ở lại đặt câu hỏi cho người ra đi rằng khi người chiến sĩ cách mạng về dưới thủ đô Hà Nội rồi còn có nhớ đến những người nông dân Việt Bắc ở đây hay không? Với cách xưng hô “mình – ta” mà nhà thơ tố Hữu đã sử dụng, nó mang đậm chất ca dao cùng với điệp từ mình đã cho chúng ta thấy được tình cảm keo sơn gắn bó thân thiết đầy yêu thương của những người dân Việt Bắc dành cho những chiến sĩ cán bộ cách mạng, làm cho nỗi nhớ càng thêm day dứt khôn nguôi. Người Việt Bắc muốn hỏi người chiến sĩ cách mạng kháng chiến có nhớ:
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Cụm từ Mười lăm năm đó chỉ là từ chỉ thời gian, là những khoảng thời gian chung sống với nhau, gắn bó keo sơn giữa người chiến sĩ và người nông dân ở chiến khu Việt Bắc. Đó là một khoảng thời gian rất dài cùng nhau kháng chiến, chiến đấu chống thực dân Pháp, cùng nhau vượt qua biết bao gian khổ. Từ “ấy” vang lên chứ tác giả đã không sử dụng từ “đó” như làm tăng thêm ý nghĩa của một khoảng thời gian “mười lăm năm” đồng thời để thể hiện sự trân trọng của tác giả đối với những ngày tháng gắn bó cùng người dân ở chiến khu Việt Bắc. Những từ như : “thiết tha”, “mặn nồng” là những từ tác giả sử dụng dùng để nhấn mạnh tình cảm yêu thương gắn bó keo sơn đùm bọc giữa người nông dân Việt Bắc và những người lính, cán bộ cách mạng. Từ đó tác giả Tố Hữu muốn nhấn mạnh hơn để chúng ta thấy rõ hơn về tình nghĩa thủy chung son sắt luôn một lòng hướng tới cách mạng, hướng tới những người chiến sĩ, cán bộ của người dân chiến khu Việt Bắc.
Câu thơ tiếp đến nhà thơ Tố Hữu viết như một lời nhắc nhở đối với người chiến sĩ và cán bộ cách mạng rằng:
“Mình về mình có nhớ không”
Vẫn là câu những câu hỏi tu từ đó, vẫn là cùng một cách xưng hô “mình” nhưng đây là một câu hỏi vang lên như một lời nhắc nhở rằng “có nhớ không”. Người Việt Bắc muốn nhắc nhở đến người chiến sĩ và cán bộ cách mạng là về thủ đô Hà Nội, về xuôi thì nhớ đến chiến khu Việt Bắc, hãy:
“Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Khi về tới thủ đô Hà Nội, những người lính và cán bộ cách mạng khi nhìn thấy cây ở Hà Nội phồn hoa thì xin đừng quên mà hãy nhớ đến vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng nơi Việt Bắc. Hãy nhớ đến nơi mà đã gắn bó một thời gian dàu, thủy chung, son sắc, nơi những người lính, cán bộ cách mạng và người Việt Bắc đã cùng nhau kháng chiến chiến đấu chống thực dân Pháp, cùng nhau vượt qua biết bao là gian nan, khổ cực. Khi nhìn thấy sông thì hãy nhớ đến cội nguồn, hãy nhớ đến sông núi ở chiến khu Việt Bắc, nhớ đến những dòng sông đã đồng hành cùng các chiến sĩ cách mạng chiến đấu. Hay đó cũng chính là lời nhắc nhở của người dân chiến khu Việt Bắc đối với người chiến sĩ, cán bộ cách mạng khi trở về thủ đô Hà Nội nhìn thấy cảnh vật nơi đô thị đẹp đẽ, tươi mới ấy thì hãy nhớ đến con người Việt Bắc nơi đây, nhớ đến những ngày tháng đồng hành cũng nhau chiến đấu gian khổ nơi núi rừng đầy nguy hiểm, trắc trở, cheo leo. Ở đây Điệp từ “nhìn” và “nhớ” tác giả sử dụng dường như đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại. Mong muốn những người lính, cán bộ cách mạng luôn luôn nhớ mãi về nơi chiến khu Việt Bắc. Nơi có những con người giản dị, chất phác, sắt son, thủy chung, mãi luôn một lòng mong nhớ về người lính cách mạng.
Tiếp đến là Bốn câu thơ đầu tiên là lời của những người nông dân nơi chiến khu Việt Bắc hỏi người lính, cán bộ cách mạng về xuôi.Ở đấy nhà thơ Tố Hữu đã tính ý khi sử dụng lối đối đáp cách xưng hô “mình – ta”, điệp từ cùng với từ láy, đặc biệt là kết hợp cùng với câu hỏi tu từ đã làm cho người đọc thấy được tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng, thủy chung của người dân Việt Bắc đối với những người lính, những người cán bộ cách mạng. Qua đó ta có thể thấy được phẩm chất giản dị, chất phác tốt đẹp của con người chiến khu Việt Bắc nơi đây. Dù phải sống trong khó khăn, gian nan, đồi núi hiểm trở, thiếu thốn mọi mặt về vật chất nhưng tình yêu của họ đối với người chiến sĩ, cán bộ cách mạng là không bao giờ thay đổi, luôn một nỗi nhớ nhung da diết và mãnh liệt.
Ở đây nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của đoạn thơ không chỉ là những lời của người nông dân ở chiến khu Việt Bắc mà còn là câu trả lời của người lính, cán bộ cách mạng dành cho Việt Bắc:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng với đại từ nhân xưng “ai” đó chính là thể hiện ra tiếng lòng của người dân Việt Bắc vang vọng như là muốn gọi những người chiến sĩ, cán bộ cách mạng ở lại, không muốn họ phải chia li, hay đó cũng chính là tiếng lòng của người chiến sĩ, cán bộ không muốn rời xa nơi chiến khu Việt Bắc. Từ “tha thiết” như làm cho tiếng gọi đó càng thêm vang vọng hơn, sâu lắng hơn, làm cho người đọc cảm nhận được rõ hơn tình cảm giữa con người, rừng núi, cội nguồn Việt Bắc và người lính, cán bộ cách mạng như vô cùng sâu nặng. Câu thơ tiếp theo sẽ càng làm rõ hơn điều đó:
“Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
Tác giả đã tinh tế khi sử dụng từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” chính là để làm rõ hơn tâm trạng người ra đi. “Bâng khuâng” là một trạng thái khó tả biểu hiện cho sự lưu luyến day dứt, như còn băn khoăn lâng lâng một cái gì đó sâu sắc lắm trong tình cảm của mình. Nó làm cho tâm trạng của con người trở nên day dứt đến khó chịu,“bồn chồn” là chỉ sự ray rứt, khó chịu trong tâm trạng của con người như bồn chồn lo lắng điều gì đó. Tất cả những điều đó đã tạo nên tâm trạng của các chiến sĩ, cán bộ cách mạng về thủ đô Hà Nội, khi trở về thủ đô Hà Nội vẫn còn mang trong mình một nỗi nhung nhớ, ra riết, ray rứt khôn nguôi, lẫn vào đó chút lo lắng trong tâm trạng của người lính, cán bộ cách mạng. Qua đó người đọc có thể cảm nhận được rằng tình cảm của những con người cách mạng đối với nhân dân chiến khu Việt Bắc cũng tha thiết, sâu nặng không kém gì tình cảm mà người dân ở chiến khu Việt Bắc dành cho họ.
Hai câu thơ cuối cùng là hình ảnh cảm xúc nhất, hình ảnh khi mà người đi và người ở lại phải chia li, cuộc chia li chứa đầy nước mắt giữa người chiến sĩ cách mạng và người Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
“Áo chàm” là một dạng áo màu áo nâu, là màu áo của người nông dân nghèo khó, gian nan, khổ cực, vất vả quanh năm ngày tháng lao động cần cù để phục vụ cho cách mạng, phục vụ cho đất nước. Tác giả đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” đó chính là để chỉ những người dân ở chiến khu Việt Bắc. Những người Việt Bắc ra tiễn những người lính cách mạng về xuôi trong một tâm trạng bịn rịn, day dứt, bâng khuâng. Từ “phân li” như thể hiện buổi chia tay ấy như là sự chia cắt sẽ không gặp lại nhau được nữa. Dường như họ không muốn phải rời xa nhau nhưng do hoàn cảnh lúc bấy giờ bắt buộc họ phải chia li, xa cách nhau mỗi người một nơi. Qua đó thể hiện nỗi nhung nhớ, khẳng định một tình cảm tha thiết gắn bó sâu đậm của nhân dân chiến khu Việt Bắc và những người chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Tình cảm ấy càng được nhà thơ Tố Hữu khẳng định rõ nét hơn trong câu thơ cuối:
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Không phải giữa người đi và người ở lại không có gì để nói mà là có rất nhiều điều để nói mà không thể nói hết và không biết nói những điều gì đầu tiên, bởi rằng mười năm năm chung sống có quá nhiều những kỉ niệm, từ “biết nói gì” đã thể hiện điều đó. Mười lăm năm gắn bó keo sơn đùm bọc lẫn nhau, mười lăm năm cùng nhau cố gắng vượt qua biết bao là gian nan trắc trở, khó khăn gian khổ tình cảm của họ quá sâu đậm, có quá nhiều điều để nói nhưng những lời nói ấy tại sao không thể nói nên lời, nó cứ nghẹn lại trong cổ họng mà thứ duy nhất trào ra đó là chỉ có nước mắt của sự chia li trong một khung cảnh đầy cảm xúc, đầy những nối nhớ. Họ không nói ra được mà họ chỉ biết dùng hành động là cầm tay nhau, chỉ hành động rất nhỏ “cầm tay” thôi đã cho ta cảm nhận thấy tình yêu thương mặn nồng và nỗi nhớ da diết giữa người đi và người ở lại. Hành động “cầm tay” tuy nó chỉ là một hành động nhỏ, một hành đông đơn giản nhưng nó đã thay cho những lời nói yêu thương, những lời gửi gắm, tình cảm giữa họ dường như được truyền hết qua hành động ấy. Đó còn là sự thể hiện tình cảm, tâm trạng chưa xa cách nhưng đã mang biết bao là nỗi nhớ của người chiến sĩ cách mạng và đó cũng chính là tiếng lòng của họ.
Tám câu thơ tuy là ngắn gọn nhưng nó mang biết bao nhiêu là ý nghĩa, mang biết bao những cảm xúc khiến cho người đọc cũng có một cảm giác khó tả như hòa mình vào trong câu thơ. Qua đó cho ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm son sắt, gắn bó sâu nặng giữa con người nơi chiến khu Việt Bắc và người chiến sĩ,cán bộ cách mạng về xuôi. Ta thấy được tâm trạng bồi hồi lưu luyến của họ.
Nhà thơ Tố Hữa đã vô cùng suất sắc, ông không những chỉ thành công về nội dung, đoạn thơ mà còn thành công về nghệ thuật. Với những lối đối đáp, cách xưng hô mình – ta, điệp từ, điệp ngữ cùng với hình ảnh hoán dụ, từ láy, ngôn từ giản dị, đậm đà mang đậm tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Đoạn thơ giúp ta đã cảm nhận được rằng một cách rõ nét tình cảm, tấm lòng, lòng chân thành, tình yêu thương mà người dân Việt Bắc và người chiến sĩ cán bộ cách mạng dành cho nhau. Tám câu thơ trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc và ấn tượng sâu sắc.
Phân Tích 8 câu đầu bài Việt Bắc 3
Sau khi quân và dân ra dành chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng vẻ vang, trấn động thế giới, hiệp định Geneve được ký vào tháng 10 năm 1954, các chiến sĩ, cán bộ cách mạng, cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rời xa chiến khu Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử lớn ấy, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác ra bài thơ Việt Bắc, bài thơ chủ yếu là khắc họa lại cuộc chia tay với những tình cảm thủy chung. Tình cảm ấy được nhà thơ Tố Hữu thể hiện rõ nhất qua tám câu thơ sau đây :
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiếu bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Đoạn thơ thể hiện rõ một nỗi nhớ tưởng rằng không thể kìm nén được, cứ trào ra theo ngòi bút cảu tác giả và tuôn theo thành những dòng thơ. Ở đây nhà thơ Tố Hữu đã nhấn mạnh nỗi nhớ của người đi và người ở lại bằng các sử dụng có đến bốn chữ “nhớ” trong một đoạn thơ ngắn tám câu chắc hẳn là nỗi nhớ ấy phải chứa đựng một cái gì đó thật da diết và sâu nặng. Đây là nỗi nhớ quê hương cách mạng, nhớ nơi mà mình đã từng gắn bó biết bao là những gian nan khổ cực của người đã từng gắn bó sâu sắc với vùng đất thiêng đầy kỷ niệm ấy, là nỗi nhớ của tình nghĩa của sự ân tình thủy chung.
Phân tích 8 câu đầu của bài thơ Việt Bắc để ta có thể thấy được tình cảm sâu sắc và nỗi nhớ da diết, sự thủy chung của người chiến sĩ, cán bộ cách mạng với những người dân ở chiến khu Việt Bắc.
Ngay từ khi bắt đầu bài thơ ta có thể thấy rằng nhà thơ đã nhắc đến một nỗi nhớ của đạo lí Việt Nam, cảnh tiễn đưa những người lính, những người cán bộ trở về xuôi mang một tâm trạng bâng khuâng trong nỗi nhớ, người ở lại hỏi người ra đi cũng chỉ một nỗi nhớ da diết, không muốn rời xa và người ra đi trả lời bằng chính nỗi nhớ ấy của mình. Tố Hữu đã suất sắc khi diễn tả nỗi nhớ quê hương cách mạng bằng những tiếng lời nói ngọt ngào, thiết tha của khúc hát đối giao duyên nam nữ. Khúc hát ấy đã thấm nhuần vào tư tưởng đạo lí ân tình thủy chung, nó được thể hiện rõ trong bốn câu thơ sau :
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”.
Nghe như là ca dao, nhưng đâu đó lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều, hai câu đầu giúp cho ta gợi nhớ đến một câu thơ trong Truyện Kiều:
“Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Người dân ở chiến khu Việt Bắc đã hỏi những người chiến sĩ, cán bộ cách mạng khi về đến thủ đô Hà Nội có còn nhớ đến mình không? Có còn nhớ những kĩ niệm, tình cảm thiết tha, mặn nồng gắn bó trong suốt qoãng thời gian mười lăm năm đó không. Nhìn cây còn có nhớ núi rừng VIệt Bắc, nhìn sông còn có nhớ đến cội nguồn? Tuy là bốn câu thơ nhưng thực chất nó lại là hai câu hỏi tu từ. Lời nói của người ở nhưng thực ra là lời nói của người đi để nói lên đạo lí Việt Nam truyền thống dân tộc vốn là bản chất tốt đẹp. Bốn câu thơ ấy không chỉ nói lên mà chính là để nhắc nhở mọi người, để nhắc nhở chính bản thân mình bởi vì cái đạo lí ấy thiêng liêng lắm, chúng ta phải luôn biết phải giữ gìn và phát huy.
Khoảng thời gian sâu nặng ấy biết bao trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, thể hiện nỗi nhớ, ân tình biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng bốn chữ “ mình “, có đến bốn chữ “ nhớ” trong bốn câu thơ nó hòa quyện lại cùng chữ “ta”,làm cho cái đạo lí ân tình Việt Nam trở thành một sợi chỉ đỏ nó xuyên suốt trong bài thơ Việt Bắc và nó cũng chủ thành một chủ đề lớn, chủ đề chính của tác phẩm.
Sau bốn câu thơ mở đầu là cảnh người đi và người ở lãi tiễn đưa nhau nó mang một cảm giác bâng khuâng trong nỗi nhớ của người dân chiến khu Việt Bắc với những người linh, những người cán bộ cách mạng :
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Ở đây ta có thấy rằng có âm thanh của sự da diết và thể hiện càng rõ nét màu sắc đậm đà thủy chung. Giữa người đi và người ở lại không phải là họ không có gì để nói cho nhau, mà nó có quá nhiều nhưng điều để nói, mà không biết bắt đầu từ đầu, vì đó họ đã thể hiện với nhau bằng những hành động, tuy những hành động nhỏ nhưng nó lại chứa đựng biết bao là những cảm xúc, được thể hiện bằng những hành động có bước chân bồn chồn và những cái nắm tay đầy lưu luyến. Mỗi bước chân của người đi nó lại mang theo biết bao là nỗi niềm luyến lưu cho người ở lại. “Tiếng ai” đây không phải là một câu hỏi, cũng không phải là đại từ phiếm chỉ mà đó chính là cách để nói, để thể hiện nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. “Bâng khuâng” là vì “đi không nỡ”, nhưng “bồn chồn” vì ở cũng chẳng đành bởi vì họ biết rằng chiến khu Việt Bắc nơi đây nó đã trở thành những ký ức, trở thành thành tình yêu, thành tâm hồn:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Những từ láy như là bâng khuâng, như bồn chồn đều được nhà thơ Tố Hữu sử dụng rất tinh tế trong câu thơ này. Nó đã thể hiện được rõ nhất nỗi niềm, được tâm trạng và cả những chuyển động trong cảm xúc của cuộc chia li này, để rồi hình ảnh tiếp theo xuất hiện là hình ảnh chiếc áo chàm gợi tả con người Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Màu áo chàm ở đây là một hình ảnh vô cùng ý nghĩa, đó là màu áo của người nông dân Việt Bắc giản nhỉ, mộc mạc, gian nan khổ cực, nhưng lại mang đậm tính son sắt như chính lòng thủy chung của con người nơi đây. Màu áo chàm ấy nhắc nhở những người lính, người cán độ nhiều những ký ức khó phai nhòa.
Câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” nó mang một hành động, một giá trị biểu cảm rất lớn. “Cầm tay nhau” nhưng chẳng “biết nói gì” vì có quá nhiều nỗi niềm cần nói ra, vì trong lòng họ đang tràn ngập nỗi nhớ nhung da diết nên họ không biết nói điều gì trước, điều gì nên giãi bày, điều gì nên giấu kín trong mình. Vậy nên chẳng “biết nói gì” chính là nói lên nhiều tấm lòng yêu thương. Nhà thơ Tố Hữu đã vô cùng xuất sắc khi sử dụng trong câu thơ ngắt nhịp 3/3/2 như sự ngập ngừng lưu luyến, nhớ nhung, cũng vào hoàn cảnh đó, cảm xúc đó làm ta liên tưởng đến buổi tiễn đưa của người chinh phu và chinh phụ trong Chinh phụ ngâm:
“Bước đi một bước, giây giây lại dừng”.
Ta có thể thấy trong màn đối đáp của cuộc chia tay lịch sử ấy, tác giả Tổ Hữu đã để cho người ở lại, người dân ở chiến khu Việt Bắc lên tiếng trước. Điều đó không những hợp lý, mà còn cần thiết cho sự phát triển trong cả bài thơ.
Bằng việc sử dụng đại từ “mình – ta” cùng thể thơ lục bát của Tác giả Tố Hữu, ông đã tái hiện lại một cuộc chia tay lịch sử của người dân chiến khu Việt Bắc và người chiến sĩ, cán bộ cách mạng với biết bao kỉ niệm ân tình, chung thủy. Bài thơ Việt Bắc ra đời cũng chính là lời nhắc nhở tình nghĩa gắn bó, đùm bọc lẫn nhau cùng đạo lý tri ân muôn đời của dân tộc Việt Nam ta.
Phân tích khung cảnh chia li trong 8 câu đầu Việt Bắc
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Geneve được ký kết, tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc, khắc họa lại cuộc chia tay lịch sử với những tình cảm thủy chung son sắt. Tình cảm ấy được thể hiện qua những câu thơ sau:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Đoạn thơ tràn đầy một nỗi nhớ tưởng như không thể kìm nén được, cứ trào ra theo ngòi bút và tuôn chảy thành những dòng thơ. Có đến bốn chữ “nhớ” trong một đoạn thơ tám câu chắc hẳn nỗi nhớ ấy phải thật da diết và sâu nặng. Đây là nỗi nhớ quê hương cách mạng của người đã từng gắn bó sâu sắc với vùng đất thiêng đầy kỷ niệm ấy, là nỗi nhớ của nghĩa tình, của ân tình thủy chung.
Khúc hát dạo đầu đã nhắc đến nỗi nhớ của đạo lí Việt Nam, cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ, người ở lại hỏi người ra đi cũng chỉ một nỗi nhớ và người ra đi trả lời bằng chính nỗi nhớ ấy của mình. Tố Hữu đã diễn tả nỗi nhớ quê hương cách mạng bằng tiếng nói ngọt ngào, tha thiết của khúc hát đối đáp giao duyên nam nữ trong dân ca. Khúc hát ấy thấm nhuần đạo lí ân tình thủy chung:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”.
Nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều, hai câu đầu gợi ta nhớ đến một câu thơ trong Truyện Kiều:
“Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Việt Bắc đã hỏi người cán bộ về xuôi có còn nhớ mình không? Có còn nhớ những tình cảm thiết tha, mặn nồng trong suốt khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Nhìn cây còn có nhớ núi, nhìn sông còn có nhớ đến nguồn? Bốn câu thơ nhưng thực chất là hai câu hỏi tu từ. Lời của người ở nhưng thực chất là lời nói của người đi để nói lên đạo lí Việt Nam truyền thống vốn là bản chất tốt đẹp của dân tộc ta. Không chỉ nói lên mà chính là nhắc nhở mọi người, nhắc nhở chính mình bởi vì cái đạo lí ấy thiêng liêng lắm, quý giá lắm, phải giữ gìn và phát huy.
Sâu nặng biết bao trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, ân tình biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ mà có đến bốn chữ “mình”, bốn chữ “nhớ” hòa quyện quấn quýt cùng chữ “ta”, khiến cái đạo lí ân tình Việt Nam đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ Việt Bắc, trở thành chủ đề lớn của tác phẩm.
Sau khúc hát mở đầu là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ của người ra đi và cả người ở lại:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Có âm thanh da diết và màu sắc đậm đà thủy chung, có bước chân bồn chồn và những cái nắm tay đầy lưu luyến. Mỗi bước chân của người đi mang theo nỗi niềm luyến lưu cho người ở lại. “Tiếng ai” không phải là câu hỏi, cũng chẳng phải là đại từ phiếm chỉ mà đó chính là cách nói thể hiện nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. “Bâng khuâng” vì “đi không nỡ”, nhưng “bồn chồn” vì ở cũng chẳng đành bởi lẽ Việt Bắc đã trở thành ký ức, thành tình yêu, thành tâm hồn:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Từ láy bâng khuâng, bồn chồn được Tố Hữu sử dụng rất tinh tế ở câu thơ này. Nó thể hiện được nỗi niềm, được tâm trạng và cả những chuyển động trong cảm xúc, để rồi hình ảnh tiếp theo xuất hiện là chiếc áo chàm qua thủ pháp hoán dụ gợi tả con người Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Màu áo chàm là một hình ảnh đầy ý nghĩa, đó là màu áo của Việt Bắc đậm đà, son sắt như chính lòng thủy chung của con người nơi đây. Màu áo ấy nhắc nhở người ra đi nhiều ký ức khó phai nhòa.
Câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” mang một giá trị biểu cảm rất lớn. “Cầm tay nhau” nhưng chẳng “biết nói gì” vì có quá nhiều nỗi niềm cần bày tỏ, vì trong lòng họ tràn ngập nỗi nhớ thương nên không biết nói điều gì trước, điều gì sau, điều gì nên giãi bày, điều gì nên giấu kín trong tim. Cho nên chẳng “biết nói gì” chính là nói lên rất nhiều tấm lòng thương nhớ. Câu thơ ngắt nhịp 3/3/2 như sự ngập ngừng lưu luyến, làm ta liên tưởng đến buổi tiễn đưa của người chinh phu và chinh phụ trong Chinh phụ ngâm:
“Bước đi một bước, giây giây lại dừng”.
Trong màn đối đáp giao duyên của cuộc chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã để cho người ở lại lên tiếng trước. Điều này không chỉ hợp lý, tế nhị mà còn cần thiết cho sự phát triển mạch thơ trong cả bài thơ.
Bằng việc sử dụng đại từ “mình – ta” cùng thể thơ lục bát, Tố Hữu đã tái hiện cuộc chia tay lịch sử của Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng với biết bao ân tình, chung thủy. Con người dễ cộng khổ nhưng khó đồng cam, Việt Bắc ra đời chính là lời nhắc nhở tình nghĩa gắn bó cùng đạo lý tri ân muôn đời của dân tộc.
Các bạn có thể giúp mình trở nên tốt hơn bằng cách để lại ý kiến của bạn về bài viết ở phần bình luận.